undefined
undefinedundefined
Lăng Hoàng gia ở Gò Công
24/01/2013
0:35
Ông Phạm Đăng Hưng sinh năm 1764 tại giồng Sơn
Quy, thôn Tân Niên Đông, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay thuộc xã Long
Hưng, TX.Gò Công, Tiền Giang). Ông là thân phụ của thái hậu Từ Dũ, thông gia
vua Minh Mạng, cha vợ vua Thiệu Trị, ông ngoại vua Tự Đức.
Quan đại thần nhà Nguyễn
Theo sách sử, thuở nhỏ ông được cha là nhà nho
Phạm Đăng Long hết lòng dạy dỗ, nên học rất giỏi. Năm 1796, ông thi đỗ Tam
trường, được chúa Nguyễn Phúc Ánh bổ dụng làm Lễ sinh ở phủ, sung Cống sĩ viện,
rồi thăng Tham luận ở Vệ phấn võ. Năm 1799, được làm Tham tri Bộ Lại. Năm 1813,
ông giữ chức Thượng thư Bộ Lễ. Sau đó, được giao thêm việc quản lý Khâm thiên
giám. Năm 1819, khi vua Gia Long bị bệnh nặng, ông vâng mệnh phụng thảo di
chiếu và cùng với Lê Văn Duyệt thực hiện di chiếu, lập hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm
lên ngôi, lấy hiệu là Minh Mạng. Năm 1821, ông
được sung làm Phó tổng tài của Quốc sử quán. Nhưng do bị gièm pha, ông bị giáng
hai cấp. Đến năm 1824, ông được phục chức, làm Thượng thư Bộ Lễ như trước.
![]() Khu đền thờ xây dựng năm 1826 - Ảnh: H.P |
Đại Nam thực lục ghi, mùa hạ năm 1825, vua Minh
Mạng đi công cán ở tỉnh Quảng Nam, giao quyền cai quản kinh đô Huế cho ông.
Tháng 5 năm đó, ông bị bệnh mất tại Huế, thọ 61 tuổi. Vua Minh Mạng ra dụ: “Đăng Hưng là đại thần già cả,
trung thành văn nhã, vua rất tin dùng. Đến nay chết, tặng Hiệp biện Đại học sĩ,
cho thụy là Trung Nhã; lại cho 500 quan tiền, 3 cây gấm Tống, 10 tấm lụa”. Linh
cữu của ông được đưa về an táng ở quê nhà.
Năm 1849, ông được vua Tự Đức truy thăng hàm
Vinh Lộc đại phu Thái bảo, Cần chánh điện đại học sĩ, tước Đức Quốc công và
được thờ ở miếu Trung hưng công thần, tên được ghi ở đền Hiền lương. Ngoài ra,
vua còn cho xây đền thờ tại xã Kim Long ở phía tây Kinh thành. Ngày kỵ của Đức
Quốc công, vua rước hoàng thái hậu Từ Dũ đến đền thờ làm lễ.
Ở Gò Công, vua cũng cấp cho họ Phạm khu đất tự
điền Văn Xá 100 mẫu lo việc thờ cúng Đức Quốc công. Đến thời Pháp thuộc, 100
mẫu đất Văn Xá này nhập vào làng Tân Niên Đông.
Đại bản doanh quân khởi nghĩa
Đền thờ Đức Quốc công Phạm Đăng Hưng, thường
được gọi là lăng Hoàng gia, tọa lạc
tại giồng Sơn Quy, xã Long Hưng, TX.Gò Công. Mộ Đức Quốc công được xây bằng hợp
chất ô dước. Nấm mộ có hình bát giác, có dáng dấp một con quy, khác biệt với
mọi ngôi mộ thông thường ở Nam
bộ. Bình phong được xây dựng khá cầu kỳ, các đường gờ rất mềm mại, uyển chuyển.
Mộ có 3 vòng thành bên ngoài, 2 tấm bình phong. Trước đây còn 4 trụ biểu được
xây dựng rất uy nghi.
Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường, thời
phong kiến, trước nhà quan lại thường có những cây trụ biểu để người dân dán
vào đó những thắc mắc, khiếu nại (tương tự như hộp thư góp ý bây giờ). Từ đó,
trước mộ các quan đại thần có tục xây những cây trụ biểu mang tính tượng trưng.
Nhưng không hiểu vì sao, thời gian gần đây khi trùng tu lại khu lăng mộ, 4 trụ
biểu đó đã bị đập bỏ. Năm 1861, khi thực dân Pháp chiếm Gò Công, Trương Định
chiêu mộ nghĩa binh chống lại. Do có sự thỏa thuận ngầm với triều đình Huế, ông
đã sử dụng khu vực này làm đại bản doanh cho quân khởi nghĩa. Năm đó, thái hậu
Từ Dũ bị bệnh đau mắt nên lấy cớ là “long mạch bị động” và ra lệnh cho đắp lũy
Sơn Quy ở Gò Công. Nhưng thực chất là nhằm hợp thức hóa việc nghĩa quân Trương
Định đắp lũy chống giặc.
Sau khi cuộc khởi nghĩa thất bại, Bình Tây Đại
nguyên soái Trương Định tuẫn tiết, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu còn nhắc: “Mây giăng
Truông Cóc đường quan vắng/Trăng xế Gò Rùa tiếng đẩu tan”. Mãi đến năm 1889,
thái hậu Từ Dũ còn sai vua Thành Thái về lăng mộ ở Gò Công thắp nhang tổ tiên.
Chuyến đi này, dường như có mục đích nhằm thăm dò dân tình ở Nam kỳ có còn
ngưỡng vọng đến triều đình. Bà cũng đã chuẩn bị sẵn việc cho khắc lại bia ca
ngợi công đức ông Phạm Đăng Hưng dựng ở đền thờ và một tấm bia dựng tại khu
lăng mộ ở Gò Công bằng đá hoa cương, thay cho tấm bia gốc đã bị người Pháp tịch
thu khi di chuyển từ Huế vào đến Sài Gòn năm 1858, đồng thời chuẩn bị tiền
trùng tu lại ngôi từ đường.
Bấy giờ, vua Thành Thái theo
đường bến đò Mỹ Lợi sang Gò Công, tháp tùng có quan toàn quyền, chánh tham biện
và các quan viên trong tỉnh. Hương chức và người dân hai bên đường bày hương án
đón tiếp. Tại cầu Sơn Quy, đường vào lăng có lập hai cổng chào theo mô hình
Khải hoàn môn cao lớn, kết rồng phượng, cờ xí rực rỡ. Ông Văn Phong, người đi
xem lễ đón rước có làm bài vè mô tả:
“Mỹ Lợi thẳng đến Gò Công
Tam quan tám cửa, Khánh môn nối liền
Lọng tán cờ biển hoan nghênh
Hội tề khăn áo rộng xanh đứng chờ...”
Tam quan tám cửa, Khánh môn nối liền
Lọng tán cờ biển hoan nghênh
Hội tề khăn áo rộng xanh đứng chờ...”
Chuyến về thăm lăng mộ tổ tiên họ ngoại của vua
Thành Thái, được ông Việt Cúc mô tả trong Gò Công cảnh cũ người xưa, nhưng do
chép lại qua lời kể dân gian, tác giả đã mô tả lễ rước này là lễ tiếp tân, “hầu
bái” quan chánh tham biện.
Sau chuyến đi của vua Thành Thái, ngôi từ đường
được xây dựng với kiểu nhà 3 gian 2 chái, cột gỗ, mái ngói, phía trước có thảo
bạt. Quần thể kiến trúc nhà thờ gồm cổng tam quan, sân, hồ sen, nhà thờ, nhà
khách, nhà khói, nhà chỉnh y phục, được bao bọc bằng một tường xây cao. Cổng là
một cái phường 2 tầng có mái, trước đây có treo tấm biển ba chữ “Tích Thiện
đường” và câu đối của vua Tự Đức ban tặng:
“Tích đức dĩ di, vạn thế vĩnh lại/Thiên gia tất
hữu, bá phước dịch tuy”
(Tích đức lấy truyền, muôn đời luôn cậy dựa/Thiện gia ắt có, trăm phước nối an khang).
(Tích đức lấy truyền, muôn đời luôn cậy dựa/Thiện gia ắt có, trăm phước nối an khang).
Dưới mái phường đắp hình các loại trái cây, hoa,
thú... Đặc biệt lần chỉnh trang này có nhiều hoa văn kiểu Pháp được sử dụng.
Trong những năm qua, Sở VH-TT-DL Tiền Giang đã
phối hợp cùng chính quyền địa phương tiến hành trùng tu sửa chữa, nhằm biến khu
di tích lịch sử văn hóa này trở thành điểm tham quan và cúng viếng, phục vụ du
lịch. Đáng tiếc, do không nghiên cứu kỹ nên trong quá trình trùng tu đã hủy
hoại khá nhiều di vật của tiền nhân, trong đó việc đập bỏ trụ biểu ở khu mộ ông
Phạm Đăng Hưng là một ví dụ.